Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình qua 30 năm tái lập (phần 1)

Cập nhật: Thứ năm, 17/02/2022

Trong thời gian tỉnh mới được tái lập, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh gặp nhiều khó khăn. Ninh Bình lúc đó là một tỉnh nghèo, sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 62,9 % GDP, nhưng chưa phát triển toàn diện, tốc độ tăng trưởng chậm và chưa vững chắc, còn mang nặng tính chất tự cấp, tự túc; sản lượng lương thực bình quân đầu người năm 1992 mới đạt trên 330 kg. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhỏ bé, phân tần, manh mún; kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, hiệu quả thấp, sản xuất kinh doanh ở nhiều đơn vị quốc doanh thua lỗ. 

Năm 1992, tổng thu ngân sách trên địa bàn mới chỉ đạt gần 40 tỷ đồng, trong đó, thuế nông nghiệp chiếm khoảng 50 % cơ cấu nguồn thu ngân sách. Lao động thiếu việc làm, trong khi dân số tăng cao. Hệ thống giao thông, công trình thuỷ lợi xuống cấp nghiêm trọng. Trường học, bệnh viện, trạm y tế xã còn thiếu và xuống cấp. Các vấn đề xã hội và đời sống Nhân dân còn nhiều khó khăn. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể chậm đổi mới, chưa ngang tầm với nhiệm vụ đặt ra. GDP bình quân đầu người thấp, đạt 840.000 đồng/người/năm, đời sống một bộ phận Nhân dân còn rất khó khăn.

Giai đoạn 1992 -1995

 

Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, Đảng bộ và Nhân dân tỉnh đã phát huy truyền thống cách mạng, vượt qua nhiều khó khăn thử thách, giành được những thắng lợi lớn có ý nghĩa quan trọng, góp phần cùng cả nước rạ khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cho bước phát triển nhanh hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đến năm 1995, nền kinh tế của tỉnh có bước phát triển mới, tương đối toàn diện, tốc độ tăng trưởng khá, cao hơn so với các thời kỳ trước đây, đạt và vượt nhiều chỉ tiêu chủ yếu, nổi bật là sản xuất nông nghiệp. Sản lượng lương thực đạt 31,9 vạn tấn; lương thực bình quân đầu người đạt 372 kg; tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân hàng năm đạt 15,2 %; tỷ trọng giá trị công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng nông - công nghiệp đạt 23,65 %. Thu ngân sách trên địa bàn năm 1995 đạt gần 84,5 tỷ đồng. Tình hình xã hội có nhiều chuyển biến tốt. Đời sống của đại bộ phận Nhân dân ổn định và có nhiều mặt được cải thiện. An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội và nền quốc phòng toàn dân được củng cố, góp phần giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ và Nhân dân. Hệ thống chính trị được đổi mới và tăng cường. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, hiệu lực quản lý,’điều hành của chính quyền, vai trò của Mặt trận và các đoàn thể được nâng cao.

Giai đoạn 1996 - 2000

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Đảng bộ quân và dân trong tỉnh đã đoàn kết, phấn đấu đạt được nhũng kết quả quạn trọng trên các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng khá; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 8.12%/năm; trong đó giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,28 %, công nghiệp tăng 15.12%, dịch vụ tăng 9,72 %. Đến năm 2000, sản lượng lương thực quy thóc đạt 45,5 vạn tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 504 kg. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 150 tỷ đồng. Cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường. Các hoạt động văn hoá - xã hội -có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống của Nhân dân tiếp tục ổn định và nhiều mặt được cải thiện. Quốc phòng an ninh được giữ vững. Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, ngày càng vững mạnh.

Giai đoạn 2001 - 2005

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Ninh Bình đã đạt nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực, trong đó nổi bật nhất là lĩnh vực phát triển kinh tế.

Giai đoạn này, nền kinh tế của tỉnh đã bước vào thời kỳ tăng trưởng nhanh,1 cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tốc độ tăng trưởng GDP (2001 - 2005), bình quân đạt 20,5 %/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, đến năm 2005, nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 30,9 %; công nghiệp - xây dựng chiếm 35,7 %; dịch vụ chiếm 33,4,%. Sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Sản lượng lương thực quy thóc bình quân đạt 45,4 vạn tấn/năm; giá trị sản phẩm trên 1 ha đất canh tác đạt 25,4 triệu đồng/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn đến năm 2005 gấp 2,7 lần so với năm 2000. Giá trị sản xuất hàng xuất khẩu đến năm 2005 đạt 50,3 triệu USD; giá trị kim ngạch nhập khẩu đạt 22 triệu USD. Lĩnh vực dịch vụ, du lịch, giao thông vận tải, điện lực, bưu chính viễn thông đều có bước phát triển, cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. Thu ngân sách trên địa bàn năm 2005 đạt 639 tỷ đồng. GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 5,3 triệu đồng, gấp 2,1 lần năm 2000. Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2005 còn 6,2 % (theo tiêu chí năm 2000), cơ bản không còn hộ đói.

Giai đoạn 2006 - 2010

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, Ninh Bình tiếp tục phát huy được truyền thống và sức mạnh tổng hợp của Đảng bộ và các tầng lóp nhân dân, chủ động khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phù họp với thực tiễn của tỉnh, nỗ lực phấn đấu đạt kết quả toàn diện trên nhiều lĩnh vực.

Trong điều kiện có nhiều khó khăn, ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2009, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của tỉnh đạt 16,5%, cao hơn mức tăng trưởng bình quân cả nước. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2010 đạt 19.200 tỷ đồng, gấp 4,36 lần năm 2006. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hàng năm (theo giá cố định 1994): Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản: 4,3%; công nghiệp: 28,4%; dịch vụ: 19,12%. Cơ cấu kinh tế (theo GDP giá hiện hành) đến năm 2010: Công nghiệp - xây dựng: 48,9%; dịch vụ: 35,3%; nông, lâm nghiệp, thuỷ sản: 15,8%. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 20,9 triệu đồng, tăng gần 4 lần so với năm 2005, bằng 90 % so với bình quân chung cả nước (1200 USD) và vượt bình quân vùng Đồng bằng sông Hồng (1.040 USD). Thu ngân sách trên địa bàn năm 2010 đạt 3066 tỷ đồng. '

Lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng có sự phát triển mạnh, giá trị sản xuất công nghiệp bình quân 5 năm tăng 28,4%. Những dự án lớn như: các nhà máy xi măng The Vissai, Hướng Dương, Duyên Hà, ô tô Thành Công, nhà máy kính Tràng An... đã góp phần làm tăng năng lực sản xuất và tạo giá trị tăng thêm.

Huy động nguồn lực cho đầu tư xây dựng cơ bản tăng mạnh, cơ cấu nguồn vốn chuyển dịch theo hướng tích cực. Trong giai đoạn này, tổng nguồn vốn đạt 46.000 tỷ đồng, tăng gấp 5 lần so với thời kỳ 2001- 2005. Nông nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, giá trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác tăng cao, đạt 75 triệu đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2005. Du lịch có bước phát triển khá. Năm 2010, đón trên 3,3 triệu lượt khách du lịch đến Ninh Bình. Hoạt động xuất, nhập khẩu có chuyển biến tích cực. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu 5 năm đạt 985 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt trên 240 triệu USD, tăng bình quân 26,2%/năm.

Cùng với phát triển kinh tế, các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết, đạt nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống Nhân dân không ngừng được cải thiện. Giáo dục - đào tạo phát triển khá toàn diện; công tác khoa học, công nghệ; bảo vệ tài nguyên, môi trường được coi trọng. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân được quan tâm. Văn hoá - thông tin, thể dục - thể thao, báo chí, phát thanh - truyền hình, văn học - nghệ thuật có nhiều tiến bộ. Công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội được triển khai mạnh mẽ trong toàn tỉnh, trọng tâm là ở các xã có tỷ lệ hộ nghèo còn cao.

Công tác quân sự, quốc phòng địa phương được tăng cường, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triến kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trong địa bàn tỉnh.

Giai đoạn 2011 - 2015

Giai đoạn này, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cũng có nhiều khó khăn,1 thách thức. Song dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự quan tâm giúp đỡ của các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương, Đảng bộ, quân và dân toàn tỉnh đã nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất, chủ động, sáng tạo, phát huy dân chủ, khắc phục khó khăn nên đã đạt được những kêt quả quan trọng, tương đối toàn diện trên các lĩnh vực..

Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cả nhiệm kỳ đạt 11,7%/năm, là mức tăng trưởng khá trong điều kiện kinh tế thế giới và trong nước suy giảm. So với năm 2010, quy mô GDP gấp 2,1 lần; tỷ trọng ngành nông, lâm, thuỷ sản giảm xuống còn 12%; tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng tăng lên 48%; tỷ trọng ngành dịch vụ tăng lên 40%. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2015 đạt 4.379 tỷ đồng.

Sản xuất công nghiệp có chuyển biến tích cực, tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khá. Một số dự án sản xuất mới hoàn thành (ô tô, linh kiện điện tử) đã đi vào hoạt động có hiệu quả. Tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn có bước phát triển; có 83/257 làng nghề được UBND tỉnh công nhận; giá trị sản xuất từ nghề, làng nghề chiếm 19% tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Sản xuất nông nghiệp cơ bản ổn định; vùng lúa chất lượng cao được mở rộng theo quy hoạch; an ninh lương thực được đảm bảo; tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 2,04%/năm (giá so sánh năm 2010).

Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch có nhiều tiến bộ. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đạt được nhiều kết quả quan trọng. Công tác xây dựng nông thôn mới được thực hiện đồng bộ; tổng nguồn lực huy động trong 3 năm thực hiện chương trình là 7.915 tỷ đồng và đến hết 2015, có 40/119 xã đạt chuẩn quốc gia về nông thôn mới. Du lịch phát triển mạnh, Quần thể danh thắng Tràng An được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hoá và Thiên nhiên thế giới. Năm 2015, số lượt khách đến tham quan các điểm du lịch đạt 6 triệu lượt (gấp 2 lần so với năm 2010); doanh thu từ du lịch đạt 1.200 tỷ đồng. Dịch vụ thương mại, ngân hàng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông và các lĩnh vực dịch vụ khác cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống.

Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Giáo dục - đào tạo phát triển khá toàn diện; quy mô và mạng lưới các cấp học phát triển phù hợp, cơ bản đáp ứng được nhu cầu học tập của Nhân dân trong tỉnh; tỉnh Ninh Bình luôn đứng trong nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước về kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông và thi tuyển sinh đại học, cao đẳng

Công tác quân Sự, quốc phòng địa phương được tăng cường, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; công tác tư pháp, cải cách tư pháp, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả.

Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, chất lượng hoạt động được nâng lên. Công tác xây dựng Đảng được tập trung lãnh đạo toàn diện, đạt kết quả tích cực. Chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh được nâng cao; công tác quản lý và điều hành của chính quyền các cấp có chuyển biến tích cực.

Giai đoạn 2016 - 2020

Bên cạnh những thuận lợi cơ bản còn nhiều khó khăn, thách thức; dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, Đảng bộ, quân và dân toàn tỉnh tiếp tục nêu cao tinh thần đoàn kết, chủ động, sáng tạo, phát huy dân chủ, nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, đạt được nhiều kết quả quan trọng, tương đối toàn diện trên các lĩnh vực; thực hiện đạt và vượt. 13/15 mục tiêu chủ yếu của Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI, trong đó 12 mục tiêu hoàn thành vượt mức, kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng khá, năng lực sản xuất và quy mô nền kinh tế ngày càng mở rộng. Tổng sản phẩm GRDP giai đoạn này tăng bình quân 8,03%/năm, vượt mục tiêu Đại hội, cao hơn bình quân chung của cả nước. GRDP bình quân đầu người đạt 64,8 triệu đồng, gấp 1,57 lần so với năm 2015. Tổng thu ngân sách cả nhiệm kỳ đạt 58.841 tỷ đồng, gấp 3,6 lần nhiệm kỳ trước.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, khai thác có hiệu quả hơn tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp, dịch vụ có những bước đi đột phá; thu hút được nhiều dự án công nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao, thúc đẩy công nghiệp tăng trưởng nhanh, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành công nghiệp bình quân 22,3%/năm, vượt mục tiêu Đại hội (16,0%/năm). Một số công nghiệp chủ lực như ô tô, camera module, kính nổi...tăng mạnh, đóng góp lớn cho nền kinh tế của tỉnh.

Hệ thống kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp đồng bộ, nhiều công trình trọng điểm được triển khai, hoàn thành đưa vào sử dụng, từng bước đáp ứng yêu cầu. Hạ tầng kỹ thuật đô thị, nông thôn có nhiều thay đổi theo hướng hiện đại.

Chính sách phát triển nông nghiệp và hỗ trợ nông thôn được thực hiện hiệu quả; nông nghiệp chuyển đổi theo hướng sản xuất hàng hóa, hình thức sản xuất tiên tiến, giá trị sản xuất đạt 135 triệu đồng/1 ha đất canh tác; hình thành vùng cơ sở chăn nuôi tập trung, quy mô lớn theo chuỗi giá trị.

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt kết quả vượt bậc, huy động được sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và hưởng ứng của nhân dân. Hết năm 2020, có 106/116 xã (chiếm 91,4%) và 03 huyện (Hoa Lư, Yên Khánh, Gia Viễn, Yên Mô) đạt chuẩn nông thôn mới, thành phố Tam Điệp hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; có 08 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 100 thôn đạt chuẩn Khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu.

Du lịch tiếp tục phát triển năng động, có nhiều sản phẩm du lịch mới, từng bước khẳng định vị trí, thương hiệu trong nước, quốc tế và dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Quy hoạch chung Khu Quần thể Danh thắng Tràng An được Thủ tưởng phê duyệt làm căn cứ bảo tồn, bảo vệ di sản. Năm 2019, đón 7,65 triệu lượt khách, doanh thu du lịch đạt 3.600 tỷ đồng.

Văn hóa - xã hội có nhiều kết quả, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân được cải thiện, người có công và các đối tượng bảo trợ được chăm lo. Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm xuống còn 2%, hộ cận nghèo 3%; bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho trên 20.500 người.

Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao từ tỉnh đến cơ sở được tăng cường, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Nhiều sự kiện chính trị, văn hóa lớn được tổ chức thành công đã tạo sức lan tỏa, quảng bá hình ảnh đất và người Ninh Bình;

Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia tăng lên 95,1%, tạo điều kiện nâng -cao chất lượng giáo dục toàn diện. Nhiều năm liền, Ninh Bình xếp thứ 3 cả nước về điểm trung bình bài thi tốt nghiệp THPT quốc gia, cũng là tỉnh thứ 3 trong cả nước về công tác phổ cập giáo dục xóa mù chữ. Năm 2020, Ninh Bình tự hào lần đầu tiên có học sinh giành giải cao nhất Cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia. Đã chủ động phòng, chống hiệu quả dịch bệnh Covid-19. Tỷ lệ xã, phường, thị trấn được công nhận tiêu chí quốc gia về y tế đạt 98,6%; tỷ lệ tham gia BHTY đạt 92% dân số, tiến tới y tế toàn dân.

Công tác quốc phòng, quân sự địa phương được tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho sự phát triển. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được chỉ đạo quyết liệt, giải quyết dứt điểm một số vụ việc phức tạp, kéo dài; công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí được quan tâm, tạo niềm tin cho nhân dân.

Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được triển khai toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm và đạt kết quả tốt; lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được nâng lên.

Công tác chỉnh trị tư tưởng được tăng cường, chú trọng giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa của quê hương; triển khai sâu rộng Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, gắn với thực hiện quy định về nêu gương và chủ đề công tác năm của Tỉnh ủy, đồng thời duy trì sinh hoạt chính trị dưới nghi thức chào cờ đầu tuần hằng tháng gắn với biểu dương các tập thể, cá nhân trở thành nền nếp. Công tác tổ chức cán hộ - được thực hiện chạt chẽ, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; thường xuyên quan tâm xây dựng tổ chức cơ sở đảng, phát triển đảng viên, nhất là ở doanh nghiệp ngoài nhà nước, vùng đông đồng bào có đạo, bình quân mỗi năm kết nạp 2.020 đảng viên. Công tác kiêm tra, giảm sát và thi hành kỷ luật trong Đảng được triển khai nghiêm túc, góp phần giữ vững kỷ luật, kỷ cương: Công tác dân vận có nhiều đổi mới, nhiều mô hình “Dân vận khéo” được áp dụng và phát huy hiệu quả thực tế; nhiều vấn đề phức tạp, vướng mắc ở cơ sở được tháo gỡ, giải quyết kịp thời, tạo sự gắn bó, đồng thuận trong Nhân dân. Công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, được dư luận Nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Công tác cải cách hành chính, trọng tâm là thủ tục hành chính được triển khai tương đối đồng bộ, quyết liệt, bám sát nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; các cơ quan, đơn vị đã quan tâm triển khai công tác cải cách hành chính tại đơn vị kịp thời, đi vào nền nếp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành, đảm bảo công khai, minh bạch, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sự hài lòng của người dân.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thế chính trị - xã hội, các hội quần chủng tiếp tục đổi mới nội dung,- phương thức hoạt động theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả, sâu sát cơ sở; chú trọng củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức và nội dung hoạt động; chăm lo đến lợi ích của đoàn viên, hội viên và Nhân dân; phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng, khu dân cư; đa dạng các hình thức tập họp, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước các cuộc vận động góp phần xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; nâng cao hiệu quả công tác giám sát và phản biện xã hội; tích cực tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền.

Chất Iượng và hiệu quả hoạt động của HĐND- Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh được nâng cao; công tác quản lý và điều hành của UBND tỉnh có chuyển biến tích cực.

Hoạt động của HĐND các cấp có nhiều đổi mới, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ vói chất lượng ngày càng được nâng lên. Sự phối hợp giữa HĐND với UBND và ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh được duy trì thường xuyên, chặt chẽ, có hiệu quả.

Công tác quản lý, điều hành của UBND tỉnh và chính quyền các cấp tiếp tục được đổi mới, có trọng tâm, trọng điểm; hiệu lực, hiệu quả trong chỉ đạo tổ chức thực hiện được nâng lên. Chỉ số cải cách hành chính từ năm 2015 đến nay xếp nằm trong nhóm 15 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước, năm 2019 xếp thứ 8 toàn quốc (tăng 01 bậc so với năm 2018, tăng 32 bậc so với năm 2014).

Đọàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã phối họp thường xuyên với HĐND, UBND, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh trong chỉ đạo triển khai tuyên truyền, tổ chức thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, giám sát việc thực hiện các nghị quyết; tham gia ý kiến vào các dự án Luật. Chất lượng hoạt động tiếp xúc cử tri tiếp tục được nâng lên; đã tiếp thu và phản ánh kịp 'thời các ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội, các cơ quan của Chính phủ.

Cổng TTĐT tỉnh